Anh hùng giết hổ nổi tiếng nhất sử Việt, dũng mãnh ngang Võ Tòng

Xưa, người Trung Quốc có Võ Tòng đả hổ trên đồi Cảnh Dương thì người Việt cũng có lý do để tự hào về người hùng giết hổ trừ họa cho dân: Phùng Hưng. 

Phim võ thuật “bá đạo” thời còn trẻ của Ngô Kinh
Chuyện chưa kể về chiếc quạt lông vũ của Khổng Minh Gia Cát Lượng

MIỀN ĐẤT SINH ANH HÙNG

Nhắc đến Phùng Hưng người đọc nhớ về xứ Đường Lâm – nơi được mệnh danh là miền đất hai vua chói ngời trong lịch sử Việt, nay là xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội. Vốn xuất thân trong một gia đình dòng dõi cự tộc, cha của ông là một một người hiền tài đức độ – Phùng Hạp Khanh.

Ông là hậu duệ đời thứ 7 của Phùng Tói Cái – người đã từng vào cung vua Đường Cao Tổ (hiệu Vũ Đức) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm này. Cho tới ngày nay thông tin ngày sinh – mất của ông cũng chưa được rõ, chỉ biết rằng cuộc đời ông gắn liền với những biến cố vào cuối thế kỷ thứ 8.

Một góc làng Đường Lâm ngày nay.
Một góc làng Đường Lâm ngày nay.

Phùng Hưng là con cả của Phùng Hạp Khanh với một người vợ họ Sử. Cả 3 người con trai ông bà có được đều khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, mạnh mẽ hơn người, có thể quật trâu, cưỡi hổ. Nhưng trong 3 anh em họ thì Phùng Hưng là người có khí chất đặc biệt nhất nên sau này nối nghiệp cha trở thành hào trưởng đất đường Lâm. Lại là người có sức khỏe phi thường, ông được dân gian ca tụng lưu truyền ngàn đời trong câu chuyện ông dùng mưu cao giết hổ dữ mang lại bình yên cho dân làng.

MƯU CAO TRỊ HỔ

Chuyện kể rằng vùng quê Đường Lâm thời bấy giờ vẫn là vùng đất gò đồi và rừng cây rậm rạp. Dân làng đang yên ổn cuộc sống thì bỗng xuất hiện con hổ dữ từ rừng về chuyên bắt gia súc và người về ăn thịt khiến cả làng đều sợ hãi không làm gì nổi. Đang thời trai tráng sung sức lại hết sức lo lắng cho dân tình, Phùng Hưng với khí phách của bậc anh hùng nên không chịu làm ngơ, ông quyết tìm cách trị hổ cứu người.

Ông cho người làm con bù nhìn bằng rơm, cho mặc quần áo giống hệt người rồi đặt đúng chỗ mà hổ thường hay xuất hiện. Con hổ đi qua, nhìn thấy bù nhìn liền tưởng người thật nên lao vào cắn xé nhưng chỉ là một cọc gỗ độn rơm tả tơi. Vài lần như vậy con hổ thấy chán chẳng con chú ý đến bù nhìn rơm nữa.

Phùng hưng đánh bại hổ, trừ nạn cho dân.
Phùng hưng đánh bại hổ, trừ nạn cho dân.

Một hôm, trời chập chạng tối, Phùng Hưng nghĩ kế lạ: người cởi trần, thân đóng khố, trát bùn khắp người đứng thế vào chỗ hay đặt bù nhìn rơm. Hơi bùn non át hơi người thoang thoảng, con hổ xuất hiện và lăng lẽ bước đến như mọi lần ghé thăm. Phùng Hưng bất ngờ xông tới nhảy lên mình hổ, ghì chặt con mãnh thú. Sau một hồi người hổ vật nhau, hổ đuối sức, Phùng Hưng giáng một cú thôi sơn đập vỡ sọ nó. Hổ chết, mối họa của dân được trừ bỏ, Phùng Hưng được ngợi ca là “vua đánh hổ”.

DỰNG CỜ KHỞI NGHĨA

Sinh trưởng trong một gia đình đời đời làm hào trưởng đất Đường Lâm, chứng kiến cảnh dân tình chịu lầm than, chịu khổ nhục trước ách thống trị hà khắc của bọn quan đô hộ dưới thời thuộc Đường – An Nam đô hộ phủ, Phùng Hưng nghẹn đắng lòng.

Các quan đô hộ nhà Đường ra sức vơ vét của cải của người dân Việt Nam, bắt người dân Việt phải đóng sưu cao thuế nặng khiến lòng người ngày càng căm phẫn. Năm 767, Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định, tức miền Việt Bắc, có công giúp kinh lược sứ An Nam là Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và nên được cử làm An Nam đô hộ sứ. Chính Bình ra sức vơ vét của cải của nhân dân, đánh thuế rất nặng, đối xử tàn ngược với dân chúng làm người người chịu khổ không biết kêu đâu mà oán thán.

Phùng Hưng quyết định dựng cờ chiêu hiền đãi sĩ, phát động khởi nghĩa chống lại chính quyền đô hộ đương thời. Hình thế nổi loạn, lòng dân căm phẫn, khí thế đấu tranh càng dễ lan tỏa sục sôi. Không bao lâu sau nghĩa quân Đường Lâm tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc.

Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm, khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779). Tới tháng 4 năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng từ chỗ cầm cự đã cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình.

Được sự trợ giúp của người cùng làng có nhiều mưu lược là Đỗ Anh Hàn, quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành. Nhưng thấy rằng lực lượng chưa đủ mạnh để đè bẹp quân địch nên ông đã cùng các tướng tỏa đi xung quanh chiêu mộ thêm binh lính và sắm thêm vũ khí, còn việc vây thành được giao cho 3 người cháu gái họ Phùng, gọi Phùng Hưng bằng bác.

Cuộc chiến đấu sau đó diễn ra quyết liệt, quân Đường chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước. Chính sử chép rằng ông cầm quyền cai trị không lâu sau đó đã qua đời ngay trong năm 791. Các sử gia hiện nay xác định ông mất khoảng tháng 5 năm 791. Sau khi mất, Phùng Hưng được nhân dân suy tôn là Bố Cái Đại Vương.

“Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ghi là: “Dân chúng tôn (Phùng) Hưng làm Bố Cái Đại Vương”. Và việc Phùng Hưng được dân chúng suy tôn là “Vua Lớn” còn thấy rõ trong câu sử bút sau đây: “Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế”. Sau khi Phùng Hưng mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi. An nối nghiệp được 2 năm thì đất nước lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm thì lại rơi vào tay nhà Đường cai trị.

BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG HIỂN LINH

Tuy rằng Triều Phùng nhanh chóng qua đi nhưng cái tên Bố Cái Đại Vương vẫn luôn lưu truyền cho tới nay với những câu chuyện thần kỳ, huyền thoại.

Khi ấy, dân các làng thường nghe có tiếng ngựa xe đi lại ầm ầm trên nóc nhà hoặc trên ngọn cây cao, ngẩng trông thì thấy ẩn hiện trong những đám mây là cờ ngũ sắc và kiệu vàng rực rỡ, lại có cả tiếng nhạc văng vẳng nữa. Cũng lạ thay, nếu có việc lành hay dữ sắp xảy ra thì thế nào đêm đến cũng sẽ có dị nhân báo cho các vị hào trưởng biết để thông tin cho cả làng hay, cho nên, ai cũng lấy làm lạ, bèn cùng nhau lập đền thờ Vương ở phía Tây của phủ đô hộ.

Tới thời Ngô Quyền dựng nước, giặc Nam Hán sang cướp nước ta. Vua ngày đêm lo nghĩ kế chống đánh. Thế rồi một đêm, Ngô Quyền nằm mơ thấy có một cụ già áo mũ chỉnh tề, đến nói rõ họ tên của mình và bảo rằng: “Tôi đã trù tính, sắp sẵn các đội thần binh để giúp sức Nhà vua, xin Nhà vua hãy gấp tiến binh, đừng lo nghĩ gì cả”. Đến khi Ngô Quyền ra đánh giặc ở sông Bạch Đằng, nghe trên không có tiếng binh mã ầm ầm. Qủa nhiên trận ấy thắng lớn, chôn vùi quân Nam Hán xâm lược ở bãi cọc trên sông.

4

Ngô Quyền lấy làm lạ, liền sai sửa sang ngôi đền, khiến cho đền rộng rãi và lịch sự hơn xưa. Thời Trần, vào năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), nhà vua sắc phong Bố Cái Đại Vương là Phù Hựu Đại Vương. Năm Trùng Hưng thứ tư lại gia phong thêm hai chữ Chương Tín. Năm Hưng Long thứ 20, Vua (Trần Anh Tông) gia phong thêm hai chữ Sùng Nghĩa nữa. Đến nay, sự linh thiêng vẫn được sùng phụng như xưa”.

Con người xưa kia luôn nung nấu một niềm tin vào Thần Phật – chính vì lẽ đó mà khi con người đầy ắp lòng thành kính, tâm hướng thiện, hòa ái thân thiện sẽ được Thần hiển linh che chở cứu giúp. Những kẻ độc tài tham lam chỉ coi dân là nô lệ mà đàn áp, cướp bóc thì cuối cùng phải đã nhận hậu quả cay đắng? Quy luật của đời người vẫn vậy, người xưa vẫn luôn đề cao chữ Chân, cái đúng thì luôn chiến thắng những điều thị phi, sai trái. Nhân thế vẫn đang xoay vòng chiểu theo quy luật đó. Người tốt thì được ngợi ca, kính phục, còn người xấu thì sẽ không thể nào tránh khỏi vòng bi ai.

Phùng Hưng sẽ mãi là niềm tự hào dân tộc. Câu chuyện trị hổ cứu dân của ông chính là một khúc ca đầy vẻ vang, còn mãi vang vọng trong lòng hậu thế.

https://youtu.be/-bgRqOzYWjs

Theo Nguyệt Hà/Daikynguyen