Người học võ và những nguyên tắc đạo – đời

Với con nhà võ, nơi tập võ không phải là Câu Lạc Bộ như nhiều người nghĩ, mà là một Võ đường, Đạo đường; người Nhật gọi là Dojo (Jo là nơi, Do là đạo đức. Dojo là nơi trui rèn đạo đức).

Trong Võ đường, và qua các kỳ kiểm tra, người học võ được đánh giá dựa trên hai tiêu chuẩn: thành tựu công phu và phẩm chất đạo đức, được thể hiện qua cung cách quan hệ, ứng xử với mọi người… Với những ai hiểu, thì đó không chỉ là hình thức mà còn bao hàm cả nội dung.

Quá trình học võ là quá trình tu dưỡng phẩm chất, đạo đức làm nền tảng cho hành vi ứng xử trong các mối quan hệ xã hội. Tuỳ theo từng mối quan hệ xã hội mà hành vi ứng xử khác nhau.  Nhưng dù sắc thái có khác nhau thế nào, thì tất cả đều được hình thành trên một nguyên tắc chung. Nói cách khác, nội dung ứng xử thì tuỳ từng mối quan hệ; nhưng nguyên tắc ứng xử thì chung nhất.1 (1)

Nguyên tắc đó là:

Nhân ái và tôn trọng

Nói tôn trọng là tôn trọng quyền tồn tại, quyền sống, quyền làm người, quyền làm người không giống ai. Trong đời sống xã hội, vị trí mỗi người tuy chẳng giống nhau, nhưng nhân cách làm người thì không khác nhau – ai cũng sinh ra và lớn lên bằng trái tim của mẹ; ai cũng bình đẳng trước thượng đế và trước cái chết. Có tinh thần tôn trọng, người tập võ không hạ mình trước bất cứ ai, không phân biệt ai hơn ai; không tâng bốc người trên, không miệt thị người dưới. Tôn trọng con người, tôn trọng mình, tôn trọng đối thủ, đó là một trong những phẩm chất hàng đầu của người học võ.

Nhân ái là mục đích cuối cùng của người học võ, nó giúp định hướng hành vi của người học võ. Dù nghĩ gì, làm gì, nói gì, xử sự thế nào, tất cả đều phải nhằm mục đích làm sao cho con người tốt hơn, cho mình tốt hơn, cho đời đẹp hơn. Nếu không vì lòng nhân ái, hành động của người học võ không khác chi hành động của tên cướp, nhưng nếu vì lòng nhân ái, hành động của anh ta sẽ là hành động anh hùng – “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” (Nguyễn Trãi).

Khiêm tốn và nhún nhường

Thói kiêu căng tự mãn là kẻ thù lớn nhất của người học võ. Sự hiểu biết không bao giờ có giới hạn. Ai không thấy thiếu sẽ không thêm được gì. Ai không biết ẩn mình sẽ không bay cao. Cái thùng đã đầy thì không còn chứa được nữa. Muốn nhảy lên cao thì phải rùn thấp. Muốn vượt qua xà phải biết uốn mình. Với người học võ, đức khiêm tốn không làm cho mình bé lại mà giúp mình có sức mạnh đi xa về trước; không làm cho mình thấp hơn đối thủ mà làm cho đối thủ không cao hơn mình. Đức khiêm tốn còn thể hiện đạo đức của người học võ: yêu người, vì người, “đi trước về sau”, “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của mọi người”.

Niềm tin và bản lĩnh

Ở đời, không ai có tất cả, không ai không có tất cả. Con gà trống gáy một tiếng, cả làng thức dậy, nhưng không đẻ được trứng; con gà mái đẻ được trứng, nhưng không làm kinh động được ai. Ông nông dân lấy vợ, sinh con, lao động cực nhọc nuôi sống gia đình, nhưng không làm được nhạc. Ông nhạc sĩ tài danh sáng tác cả pho nhạc hay làm rung động trái tim bao thế hệ, nhưng không có vợ con, không cuốc nổi một luống đất. Thật vô lý nếu ông nông dân nọ mặc cảm vì không sáng tác được nhạc; hoặc ông nhạc sĩ kia đau buồn vì không làm tròn thiên chức lấy vợ, sinh con. Cho nên, học võ là học để biết mình là ai, biết cách hun đúc mình, hoàn thiện mình, có niềm tin và tự hào về mình. Mất niềm tin là tự đánh mất vũ khí của mình. Niềm tin, đối với người trí thức, đó là sức mạnh nội tâm; đối với bậc thiền sư, đó là tinh thần vô uý; đối với người học võ, đó là dũng khí của người chiến sĩ. Mất niềm tin, con người hoặc rơi vào tự ti, trầm cảm; hoặc trở nên hung hăng, gây hấn. Chỉ có bản lĩnh, có niềm tin, người học võ mới có sức mạnh để thể hiện cái đức nhân ái, khiêm tốn, nhún nhường, và tôn trọng người khác.

2 (1)
Học võ là học làm người

Nhân ái và tôn trọng, khiêm tốn và nhún nhường, bản lĩnh và niềm tin, đó không chỉ là nền tảng của mọi hành vi ứng xử, mà còn là nền tảng của tinh thần Hoà Hợp. Mục đích tối thượng của người học võ là thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người với tinh thần: cộng tác, cộng đồng, cộng hưởng, cùng hưởng… trong xã hội; thái hoà trong gia đình, và an lạc trong bản thân. Đây là điểm thanh niên chúng ta đang thiếu, thậm chí thiếu trầm trọng. Thanh niên chúng ta thiếu cái thuận mà thừa cái nghịch, thiếu cái hoà mà thừa cái bất hoà, thiếu đoàn kết mà thừa chia rẽ. Ở đời, phàm kẻ nào không có sức mạnh nội tâm, không có bản lĩnh, kẻ đó sẽ không nói được tiếng xin lỗi, xin cám ơn, xin vui lòng, xin nhận trách nhiệm… Và chắc chắn kẻ đó không thể thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp với mọi người.

Tiếc rằng, hiện nay nhiều người hiểu không đúng về võ. Họ cho võ là đánh nhau, là vai u thịt bắp, là mặt rổ mặt rạch… Họ không hề hiểu võ là một hình thái nghệ thuật, là công cụ giáo dục đạo làm người; học võ là học đạo làm người. Thêm vào đó, cũng vì có nhiều người dạy võ chỉ dừng lại ở mức “võ thuật” mà chưa đạt tới được mức “võ lý” và “võ đạo” – chỉ dạy cho người học cách đánh mà không dạy cho họ đánh ai, đánh thế nào, bảo vệ ai, bảo vệ cái gì… Đã thế, trong xu thế thị trường hoá, thương mại hoá, thể thao hoá, võ bị xếp ngang hàng với các môn thể thao khác. Người ta chạy theo thành tích, huy chương mà quên mất sứ mệnh giáo dục; chạy theo hư danh mà quên đi thực chất. Tất nhiên, võ cũng là một môn thể thao, nhưng không phải đơn thuần chỉ là một môn thể thao. Võ là môn thể thao truyền thống. Nó vừa phải làm nhiệm vụ đào tạo những vận động viên xuất sắc cho thể thao nước nhà, vừa phải hoàn thành sứ mệnh dạy cho người học sức khoẻ, phẩm chất đạo đức, đối nhân xử thế.3 (1)

Thiết nghĩ, dù đứng trước kẻ thù hay đứng trước đối tác làm ăn, mỗi dân tộc, mỗi con người đều phải cần có sức mạnh, niềm tin, và khí phách. Thiếu sức mạnh, niềm tin, và khí phách, thì không thể đánh thắng ngoại xâm; thiếu sức mạnh, niềm tin, và khí phách, cũng không thể làm ăn sòng phẳng với người.

Ly Ly (Tổng hợp)