Hoắc Nguyên Giáp – Huyền thoại Mê tông vang vọng bốn bề (kì 2)

 Tổng tiêu đầu “một địch trăm người”

Về sau này, công phu của ông đạt đến “đánh khẽ vào thì thân thể nhũn như bông”, nếu đánh mạnh thì “thân thể rắn như sắt”. Danh tiếng của Nguyên Giáp ngày càng vang xa khi ông đả bại toàn bộ các võ sư khắp nơi đến tỉ thí khi còn rất trẻ.

Cũng như cha mình, Nguyên Giáp cũng bắt đầu tham gia vào nghề bảo tiêu và càng nổi danh hơn khi nhiều lần đánh bại các toán cướp hàng, ông trở thành một Tổng tiêu đầu uy tín. Hoắc Nguyên Giáp bắt đầu có một nguồn thu nhập khá, đủ để ông chuyển đến sống ở thành phố Thiên Tân năm 1896.

Thành phố Thiên Tân thời đó đang bị các nước đế quốc phân chia thành các khu tô giới. Nhân dân chịu đủ mọi sự lăng nhục của người phương Tây, người Nhật Bản. Một lần, Nguyên Giáp nghe nói có một người Nga là Solineron tự xưng là “Đại lực sĩ bậc nhất thế giới”, đã giương bốn chữ “Đông Á bệnh phu” (Người bệnh Đông Á) mang đầy ý nghĩa chế nhạo lẫn khiêu khích, mạt sát các võ sĩ cũng như người Hoa khiến họ cảm thấy rất bực tức.

Nguyên Giáp đi thẳng tới rạp diễn, xin được giao đấu, nhưng khi biết ông là một Tổng tiêu đầu, võ công thâm hậu “một địch trăm người”, anh chàng lực sĩ đã lấy lý do “mới đến Trung Quốc nên chưa hiểu luật đấu”, rồi ngay đêm đó vị “đại lực sĩ” chuồn mất. Chuyện này đưa ông nổi danh khắp Thiên Tân, khiến cả người dân Trung Quốc tự hào, báo chí tung hô là “Xuất diện, Tây dương tẩu” (Mới ra mặt, người Tây đã bỏ chạy)…

Vào năm 1909, có võ sĩ người Anh tên Aopian tới Thượng Hải, kiêu căng đăng tin trên báo muốn thách đấu võ với người Hoa, dân chúng Thượng Hải vô cùng phẫn nộ, nằng nặc mời Nguyên Giáp tới Thượng Hải để đấu võ, nêu cao tinh thần dân tộc, bởi khi đó Thượng Hải cũng là tô giới của các nước đế quốc.

Nhận lời tới Thượng Hải, Nguyên Giáp cùng Aopian bàn phương thức giao đấu. Nghe đến tên ông, Aopian đã ngấm ngầm muốn bỏ cuộc, nên cuộc đàm phán đã kéo dài cả tháng sau hàng chục lần thay đổi phương thức giao đấu. Cuối cùng, địa điểm cuộc đấu võ được chọn là “Vị thuần viên” (Vườn rau rút) của nhà họ Trương, nằm trên đường “Chùa Tĩnh An” của Thượng Hải.

3

Nhưng đến ngày thi đấu thì Aopian đã bí mật rời Thượng Hải. Hàng vạn người đến xem “đả lôi đài” vô cùng căm hận, nhưng sau đó, họ hả hê, mãn nhãn khi chứng kiến thầy trò Hoắc Nguyên Giáp sau khi xin ý kiến người chủ trì đã biến cuộc đấu đả lôi thành một buổi biểu diễn võ thuật xuất sắc. Từ đó uy danh của ông chấn động cả Phố Giang (tức sông Hoàng Phố) tại Thượng Hải.

nhung tran tranh dau cua ong duoc dung lai tren phim anh
Những trận tranh đấu của ông được dựng lại trên phim ảnh

Từ đầu thế kỷ XIX, ở đường Bồng Lai (Thượng Hải) có trụ sở “Võ đạo quán” của Nhật Bản, đó là trường tập luyện võ thuật Nhật Bản tại Trung Quốc. Người chủ trì “Võ đạo quán” nghe danh Hoắc Nguyên Giáp liền sai người tới mời ông đến quán để “trao đổi kỹ thuật”, thực chất là thách đấu. Thầy trò Nguyên Giáp bằng võ công cao siêu đã nhiều lần đánh thắng các võ sĩ Nhật. Do có võ thuật cao thâm, nên Hoắc Nguyên Giáp được giới võ thuật và các nhân sĩ ở Thượng Hải vô cùng kính phục, cố giữ ông lại để mong ông truyền thụ võ nghệ.

Năm 1909, các nhân sĩ trong giới võ thuật ở Hoàng Gia Đồn thuê một ngôi nhà kiểu cũ, có sảnh rộng, với hai dãy đầu hồi để Nguyên Giáp mở trường, đặt tên là “Tinh Võ thể thao học hiệu” (trường thể thao Tinh Võ). Thập niên 50 của thế kỷ XX, các đệ tử của ông đã mở mang, phổ biến Tinh Võ thể thao học hiệu sang Việt Nam, mở sân Tinh Võ tại Quận 5 ở Sài Gòn, thu hút nhiều thế hệ môn sinh tập luyện, không ít người từ đó đã trở thành cao thủ trong làng võ Việt Nam sau này.

 Tài hoa bạc mệnh

Ngày 14 thánh 9 năm 1910 Hoắc Nguyên Giap đột ngột qua đời khi vừa bước qua tuổi 42. Trong nhiều giai thoại cho rằng, ông bị hạ độc do sự gnh ghét của các võ sư nước ngoài.

Hoắc Nguyên Giap từng thi đấu với các bạn từng thi đấu với các võ sĩ Nhật Bản và có đả thương vài người trong số họ, sau đó họ lén lút đầu độc ông thông qua thuốc chữa bênh. Khi ông mất, giới võ thuật Trung Hoa vô cùng thương tiếc ca tụng ông bằng bức trướng “ Thành nhân thủ nghĩa” ( Hoàn thành được nhân từ, giữu trọn được nghĩa khí), xem ông như một danh sĩ có tinh thần dân tốc cao cả.

Năm 1989, khi thi hài Hoắc Nguyên Giap được cải táng. Có thông tin cho rằng đã phát hiện các dấu tích của việc nhiễm độc thạch tín trên hài côt. Tuy nhiên, điều này cũng không thể khẳng định được cái chết của ông là do ám sát bằng cách đầu độc, bởi trong Trung u chất thạch tín với liều lượng hợp lý cũng được xem như một phần trong các bài thuốc mà rất có thể Hoắc đã sử dụng trong một thời gian rất dài để điều trị các chứng bệnh của mình.

Có những thông tin thực tế cho rằng trong những năm cuối đời, ngoài bệnh hen suyễn mãn tính, Hoắc Nguyên Giáp còn mắc bệnh lao – một chứng bệnh nan y thời bấy giờ. Các thầy thuốc Trung y đã kê cho ông nhiều toa thuốc khác nhau, nhưng sức khỏe của Hoắc ngày một xấu đi. Tới đầu năm 1910, ông phải vào Bệnh viện Chữ thập đỏ Thượng Hải để chữa trị và sau đó ông đã mất tại đây.

Ly Nguyễn